Thế giới huyền ẩn trong các thành phố bạch tuộc và văn hóa của chúng cho thấy rằng việc nuôi bạch tuộc lấy thịt là sai lầm
Bởi Kristin Andrews
Quần đảo Canary đã đề xuất xây dựng một trang trại nuôi bạch tuộc với công suất 3.000 tấn bạch tuộc mỗi năm, có nghĩa là gần 275.000 cá thể bạch tuộc sẽ bị giết hàng năm.
Tôi là nhà nghiên cứu tâm trí và đạo đức của động vật, và đối với tôi, cụm từ “văn hóa bạch tuộc” gợi nhớ đến Octopolis và Octlantis, hai cộng đồng bạch tuộc hoang dã ở Vịnh Jarvis của Úc.
Ở Octopolis, rất nhiều con bạch tuộc chia sẻ - và tranh nhau - một vài mét vuông đất dưới đáy biển. Ở những thị trấn ngập nước này, các con bạch tuộc đã biết tự phân cấp quyền lực và chúng bắt đầu phát triển các hành vi mới: bạch tuộc đực biết tranh giành lãnh thổ và bạch tuộc cái bằng cách ném đá lẫn nhau và đấm bốc.
Xây dựng cộng đồng ở Octopus
Việc phát hiện ra các cộng đồng bạch tuộc gây bất ngờ cho các nhà sinh vật học, những người từ lâu đã mô tả bạch tuộc là loài động vật sống đơn độc, chỉ tương tác với đồng loại trong ba bối cảnh cụ thể: khi săn mồi, khi tránh bị ăn thịt và khi giao phối.
Những gì mà chúng ta quan sát được từ thành phố Octopolis cho thấy những hành vi đã được quan sát ở những con bạch tuộc bị nuôi nhốt cũng có thể xảy ra ở trong tự nhiên: khi phải sống trong một môi trường nuôi nhốt quá dày đặc, những con bạch tuộc sẽ tự hình thành một hệ thống phân cấp quyền lực.
Trong cuộc chiến tranh giành quyền lực, những con bạch tuộc đực biết đánh nhau, bao gồm ném vỏ sò để bảo vệ hang của chúng và "tung áo choàng", tức tự gồng mình lên như một con ma cà rồng để đe dọa đối thủ. Những con bạch tuộc yếu thế sẽ báo hiệu sự tuân thủ của chúng bằng cách chuyển sang màu sáng và tự làm dẹt cơ thể của chúng xuống. Qua những nỗ lực thể hiện quyền lực, những con bạch tuộc giành được quyền thống trị dường như giành được những hang động chất lượng cao hơn và nhiều con bạch tuộc cái hơn.
Văn hóa của động vật
Những gì đang diễn ra ở Octopolis và Octlantis là hiện tượng mà chúng ta gọi là văn hóa bạch tuộc. Các nhà khoa học phát hiện ra rằng nhiều động vật có văn hóa riêng của chúng sau khi họ nhận thấy rằng một số nhóm động vật biết thực hiện các hành vi mà các nhóm khác cùng loài không biết làm.
Một trong những người đầu tiên đề xướng lên thuyết văn hóa động vật là nhà linh trưởng học người Nhật Bản Kinji Imanishi, người vào những năm 1950 đã quan sát thấy một nhóm khỉ mặt đỏ Nhật Bản trên đảo Koshima biết rửa khoai lang trong nước trước khi ăn.
Đây là một hành vi mới, chưa từng thấy ở các nhóm khỉ mặt đỏ khác, và những người quan sát đã may mắn thấy được nguồn gốc của hành vi này. Một con khỉ tên Imo là con khỉ đầu tiên biết rửa khoai tây trong nước mặn và những con khỉ khác ngay sau đó đã sao chép nó, dẫn đến một hành vi lan trong toàn cộng đồng khỉ.
Ý tưởng về văn hóa động vật đã thúc đẩy nhiều nhà linh trưởng học Nhật Bản tiếp tục nghiên cứu, nhưng ở châu Âu và Bắc Mỹ, văn hóa động vật không được chú ý nhiều cho đến năm 1999 khi một bài báo về văn hóa ở loài tinh tinh được xuất bản. Kể từ đó, bằng chứng về văn hóa - tức những hành vi nhóm ở động vật - đã được tìm thấy ở trên khắp vương quốc động vật, bao gồm cả ở cá, ở chim và ở côn trùng.

Một loại bạch tuộc mới
Đề xuất thành lập một trang trại bạch tuộc là một đề xuất nhằm tạo ra một nền văn hóa bạch tuộc mới, bởi vì khi các loài động vật có văn hóa được tập trung lại một chỗ, chúng không thể không tạo ra một xã hội của riêng chúng. Đó cũng là một đề xuất để tạo ra một loại bạch tuộc mới: các hành vi văn hóa đi đôi với môi trường nuôi nhốt sẽ là một môi trường mới, và môi trường này sẽ định hình tiến hóa tiếp theo của loài bạch tuộc.
Những con vật nuôi quen thuộc của chúng ta - như bò Angus và heo Chocktaw - đã được thuần hóa và hoàn toàn khác với những giống loài tổ tiên của chúng.
Nhiều loài động vật bị chúng ta thuần hóa không thể tồn tại nếu không có sự chăm sóc của loài người. Ví dụ bao gồm: thỏ nhà đã tiến hóa đến mức chúng không còn bản năng và màu lông của thỏ rừng để bảo vệ chúng khỏi những kẻ săn mồi, loài cừu nay có bộ lông mọc quá dày nếu không được cắt tỉa thường xuyên, và một số loài gà nuôi lấy thịt không thể đi lại khi chúng trưởng thành vì ức của chúng quá nặng.
Việc thành lập một trang trại bạch tuộc là một cam kết tạo ra một loại động vật mới phải dựa vào con người để tồn tại. Đó không phải là một ý tưởng nên bị coi nhẹ, và việc bắt đầu dự án chăn nuôi này và sau đó bỏ rơi nó khi gặp khó khăn hoặc không có lợi nhuận là một việc vô trách nghiệm.
Quản lý quần thể bạch tuộc
Có nhiều lý do để lo lắng rằng một trang trại bạch tuộc sẽ không dễ quản lý. Không giống như các vật nuôi khác, bạch tuộc cần không gian riêng của chúng. Octopolis đã là một bãi chiến trường của những con bạch tuộc đấm bốc lẫn nhau; người ta chỉ có thể tự hỏi một thành phố bạch tuộc sẽ trông như thế nào trên quy mô hàng nghìn con.
Bạch tuộc là loài có tri giác - chúng là loài động vật dễ xúc động và biết cảm thấy đau đớn. Một báo cáo gần đây do Bộ Môi trường, Thực phẩm & Nông thôn ở Vương quốc Anh ủy quyền đã xem xét các bằng chứng khoa học về trải nghiệm đau đớn ở động vật thân mềm (bạch tuộc, mực và mực nang).
Những động vật có tri giác được sử dụng làm thực phẩm sẽ được bảo vệ theo luật phúc lợi và chỉ có thể bị giết theo những cách làm giảm thiểu sự đau đớn của chúng. Các phương pháp giết mổ bạch tuộc hiện nay bao gồm dùng gậy đập chết, chặt não hoặc bóp ngạt chúng. Các tác giả của báo cáo trên kết luận rằng không có phương pháp giết mổ nào trong số này là nhân đạo và khuyến cáo là không ai nên nuôi bạch tuộc lấy thịt.
Bạch tuộc rất giỏi chạy trốn. Sẽ khó đạt được loại nhà cửa cần thiết để che chở cho bạch tuộc, đặc biệt là khi bạch tuộc cần sự phong phú trong môi trường sống của chúng, vì một môi trường mà bạch tuộc coi là phong phú cũng sẽ là một môi trường tràn đầy những con đường để chạy trốn.
Nếu một trang trại bạch tuộc được thành lập và sau đó bị bỏ hoang, bạn sẽ không thể thả hàng nghìn con bạch tuộc bị thuần hóa ra biển và kỳ vọng rằng chúng sẽ biết tự sống sót. Chúng ta đã học được nhiều bài học trong nỗ lực tốn kém để thả Keiko, con cá voi đóng vai chính trong loạt phim Free Willy, rằng việc đưa động vật nuôi nhốt ra tự nhiên thành công là không hề dễ dàng. Ngay cả sau khi được đầu tư 20 triệu đô la Mỹ để quay về với thiên nhiên, Keiko vẫn chết sau khi tự nguyện quay trở lại chuồng nuôi nhốt để sống.
Đề xuất tập trung hàng nghìn con bạch tuộc lại với nhau trong một siêu đô thị sẽ mở rộng quy mô nuôi bạch tuộc vượt xa bất cứ môi trường nào được tìm thấy trong tự nhiên hoặc trong các trang trại bạch tuộc trước đây. Việc này sẽ tạo ra hàng trăm nghìn những trường hợp như cá voi Keiko, tức những con vật thủy sinh có văn hóa bị bắt từ tự nhiên và mang về nuôi nhốt. Và việc này sẽ buộc các con bạch tuộc phải sống cùng nhau và tạo ra một nền văn hóa mới ở một nơi chắc chắn sẽ trở thành một khu ổ chuột bạo lực dưới nước.
Gần đây, chúng ta đã phát hiện rằng bạch tuộc cảm nhận được cảm xúc và có văn hóa, và chúng ta đang bắt đầu suy nghĩ lại về các phương thức chăn nuôi thâm canh hiện nay.
Bây giờ chính là thời điểm sai lầm để đề xuất một kế hoạch nuôi bạch tuộc lớn như vậy. Tôi nghĩ chúng ta đủ biết về loài vật này để hiểu rằng việc nuôi chúng lấy thịt là sai lầm.